Chủ Nhật, 25 tháng 12, 2011

MEN DA VANG - HOÀNG CẦM


Thôn Bát Tràng, tả ngạn Hồng Hà, từ kinh kỳ sáng phía Đông, chừng mươi dặm Làng xúm xít tranh, ngối, gạch, màu nước vôi, quần tụ trên bãi cao nằm vào chỗ sông uốn khúc .

Tường cao, ngõ hẹp dài ngắn dọc ngang chằng chịt bàn cờ.

Bát Tràng. Một trưa hè, không năm tháng. Có một người trai trẻ rời thuyền tìm lối đi lên, như leo dốc núi. Lên tới cổng đình nhìn xuống dưới kia, con thuyền đã bé lại, nước sông hồng vẫn cuồn cuộn xối vào bờ dựng đứng, nhìn sang bên kia thấy lũy tre làng xa tít tắp những Lĩnh nam Yên Mỹ Thanh.
Người trai vào thôn. Hôm ấy như vắng lặng. Những lò gốm hình như không có ánh lửa. Đường rộng lên đê như không có người qua.

Anh rẽ vào một lối nhỏ, gặp một ông lão chống gậy lần từng bước đến

- Cháu hỏi thăm, nhà cô Phong Kiều ở ngõ nào, thưa cụ?

Ông lão nheo mắt, như nhìn về đâu xa lắm:

- Ờ, ờ… cô Phong Kiều, hình như lâu rồi, cụ tứ đại của ta có biết mặt – cô ấy trẻ đẹp lắm, anh hỏi đến đây, chắc có ý gì?

- Cháu muốn gặp mặt để nhìn ngắm một lần thôi không dám có ý gì đâu ạ.

- Kìa, đến chỗ khóm trúc ấy, anh rẽ tay phải. Đi một quãng nữa, anh gặp cái miếu thờ thì ngoặt trái, anh cứ đi, nếu có lặn mặt trời, anh cũng cứ đi. Bao giờ thấy cái cổng chỉ cao hơn đầu một tí, xây toàn đá xanh, trên có bống hình tố nữa, một cô gãy đàn nguyệt, một cô múa lụa, một cô nâng sáo trúc, một cô mùa quạt, thì anh cứ gọi tên, dẫu bận việc gì cô ấy cũng ra mở cổng.

Người trai trẻ tìm đến nơi. Mặt trời đã xế chiều. Trước cổng đá xanh, đúng cái cổng đá xanh đội trên đầu, bốn cô tố nữ ấy, có một bà cụ tóc trắng như cước ngồi bế trong lòng một cháu bé đang ngủ. Bà cụ thân mật trả lời anh, sau khi anh bỡ ngỡ hỏi thăm nhà.

- Cô Phong Kiều ư? Hồi bà ngoại tôi đâu như mới 18 tuổi, có làm phù dâu đưa cô ấy về nhà chồng. Sau đám cưới, vợ chồng cô ấy dựng ngôi nhà này. Nhưng nói anh đừng buồn, mới đây, cô ấy bỏ nhà đi đâu không ai biết.

- Vậy chồng cô ấy có nhà không, thưa cụ?

- Anh Phù Du ấy ư? – Khốn khổ, thợ gốm tài giỏi thế mà mắc phải cái tính ham chơi. Lại mê mệt một ả buôn vàng bán ngọc ở bên Kinh Kỳ. Ả rủ rê anh ta đi mất lâu rồi.
Người trai trẻ bông thấy có gì đau nhói giữa ngực, thấy bóng đêm sa sầm xuống ngõ vắng.

- Vậy thì, thưa cụ, chắc hẳn cô Phong Kiều đi tìm chồng?

- Ừ, cô ấy mới đi. May ra là đi tìm chồng chớ nhỡ ra mà thân chuệch choạng xuống đò rồi để rơi mình xuống giữa dòng nước cuốn thì… cháu ơi…

Bà cụ đưa vạt áo lên lau nước mắt, nhưng đã có giọt rơi xuống mặt cháu bé đang ngủ khiến nó cựa mình, đưa ngón tay bụ bẫm xoa dụi khắp mặt mũi. Bà cụ vỗ vỗ lưng cháu, nó theo mụ dạy, cười nhoẻn rồi lại ngủ im…

- Anh đừng lo. Bà ngoại tôi cứ ngồi chờ đây, trông nhà hộ cô ấy. Thế nào đêm nay hay đến mai là cùng cô ấy cùng về. Mà đã về là kéo được cả anh chồng trở lại nữa chứ.

- Cụ có biết mặt cô ả buôn vàng bán ngọc ấy không?

- Có. Dì này này… Thường gì ấy nhỉ. Ờ, Thương Lệ. Ừ, phải, cô ả nom chóe lóe, lộng lẫy sắc sảo lắm, vàng đeo ngọc dát đầy người. Phải rồi, bà ngoại tôi cũng kể lại lúc tôi mới lên bảy lên tám cơ, rằng cô ả giàu có lắm, nó thừa tiền mua hết trai tài, gái đảm làm nghề gốm sứ, mua hết những gì quý giá nhất của cái làng Bát Tràng này cơ. Anh Phù Du mới phải lòng nó, mê muội quá, lại bỏ cô vợ, đẹp người đẹp nết đến thế, bỏ cả bàn quay tay mây mà theo nó sang sông.

Cháu bé lại dụi mắt. Bà cụ se sẽ hát câu ru giọng khàn khàn:

- À ơi, ai đem con sáo sang sông
Để cho con sáo sổ lồng bay đi…

Người trai trẻ muốn hỏi chuyện thêm bèn khép nép ngồi xuống bậc đá xanh, gần bà cụ.

- Cụ nhìn cô Phong Kiều và ả Thương Lệ thì ai đẹp hơn ai, thưa cụ?

- Ôi chao, biết thế nào mà so bì được hở anh? Cái nhà chị Thương Lệ kia tôi nhìn thấy láy lần ở bến sông ấy, nó cứ lóa lên những vàng với ngọc từ đầu đến tai, đén cổ, bây giờ có còn nhớ được nét mặt nó ra sao, mắt mũi, mồm miệng nó ra sao nữa đâu.

Còn cô Phong Kiều thì, tôi chả biết nói thế nào cho rõ để anh nghe. Chỉ biết là tóc cô ấy dài lắm, đen óng mượt … mùa nóng nực, mớ tóc cô ấy buông ra mà phủ lên đầu, lên da một cháu bé nào đấy thì cứ gọi là mát rời rợi. Mà ngày đông tháng giá, có lần tôi đi gánh củi về đến ngõ này rét cóng tôi ngã khuỵu xuống, cô ấy vừa ra cổng, liền cúi xuống để tôi ngồi lên, tóc cô ấy xõa che kín cả người tôi, tôi thấy ấm hẳn như được đắp chăn bông. Mà hai con mắt ấy mới lạ làm sao chứ! Ai có chuyện gì đau lòng, buồn khổ hay tủi cực, lo phiền cứ nhìn vào mắt cô ấy một lát là thấy trong người nhẹ nhõm, phấn chấn lên, vui vẻ ngay. Năm kia, có một kẻ hung đồ, vác sao chạy đi tìm anh Ất ngõ Soan định đâm chém, đâu như ghen tuông gì gì ghê lắm thì phải, thế mà qua đây gặp cô Phong Kiều, cô ấy níu cánh tay hắn giữ lại. Chả biết mắt cô ấy nhìn hắn thế nào mà rồi hắn đờ tay ra, để rơi con dao chọc tiết lợn xuống rãnh, cô ấy cứ nhìn nó, nói nhỏ nhẹ với nó có vài tiếng thôi, thế là nó cúi đầu, lặng lẽ quay trở lại, và thế là cũng chẳng có xảy ra chuyện gì nữa. Còn các anh trai tơ nào mà được cô ấy nhìn một lúc thôi là về nhà ốm tương tư hết! Cả đến các cô bạn cùng lứa tuổi cũng mê mệt vì hai con mắt ấy, đứa nào cũng thích được cùng lọc đất chế men với cô ấy, được cùng đi gánh củi, kéo gỗ với cô ấy. Mà mỗi khi cô ấy nói cười với ai thì ai cũng muốn rẻo tay làm đến khuya, được cô ấy nói cười thì về ăn thêm ngon miệng, ngủ thêm đẫy giấc. Ôi chao, cái miệng cô ấy sao mà tươi thế, duyên thế. Anh cứ chờ đấy, mai cô ấy về, anh sẽ biết.

À mà tôi hỏi khí không phải, chứ anh muốn gặp cô ấy để làm gì? Người ta là gái đã có chồng rồi anh ạ,lại yêu thương chồng gấp trăm gấp nghìn lần những cô gái ngoan nhất ở cái thôn Bát Tràng này đấy.
Anh trai trẻ cười tủm tỉm.

- Không ạ, cháu có dám nghĩ thế đâu ạ. Cháu chỉ muốn biết người và xin cô ấy làm cho đôi bát men lý và cái vò men nâu hoa vàng, chả là cháu sắp lấy vợ mà. Đôi bát men lý để dùng xới cơm cho vợ, vợ xới cơm cho chồng, còn chiếc vò men nâu hoa vàng thì để đựng rượu cúc – cháu biết nấu rượu… ngon lắm, thường là để bố mẹ cháu thiết bạn, cha mẹ cháu … rượu ấy thì phải đựng vào vò men nâu vàng do chính cô Phong Kiều làm ra thì rượu mới thơm.

Bà cụ cũng cười, móm mém và hiền hậu:

- Ấy, thế thì anh cứ phải chờ. Ngủ lại đây đêm nay, nội ngày mai thế nào cô ấy cũng về… mà nghĩ anh không may. Hôm nọ cô ấy đã nặn một cái vò hình quả dứa cũng men nâu hoa vàng, không biết để cho ai, cô ấy vừa làm xong, xương đất chưa khô, còn đặt ở góc sân kia kìa, thì sáng nay, cô đã đi. Cả làng hôm nay cũng nghỉ việc, trai gái bảo nhau chạy đi bốn ngã tìm kiếm. Lửa ở các lò đều tắt rụi, các cụ già thì ngơ ngẩn nhớ thương cô cháu gái, tiếc đến đứt từng khúc ruột…

Mắt bà cụ lại rơm rớm. Giọng nói nghẹn ngào, xào xạc. Đứa bé cựa mình rồi mở mắt, làn này như nó không buồn ngủ nữa, nó nhoài lên, ôm lấy cổ bà, nhìn trừng trừng. Rồi nó nhìn cái cổng đã, nhìn anh trai trẻ. Bỗng nó nhoài người ra, vươn cả hai cánh tay nhỏ xíu đến chỗ hai cánh cổng đóng im ỉm. Nó cứ dang rộng tay, chấp chới. Mặt nó hơi phụng phịu và lắp bắp:

- Mẹ! Mẹ đâu? Mẹ bế em cơ!

Bà cụ đưa tay quệt ngang lên mắt, rất nhanh, giọng nói thều thào, nhòe hẳn đi.

- Khổ thế đấy. Cháu nó muốn cô ấy bế bồng đây mà. Cô ấy vãn thường hay bế cháy ra đầu ngõ, lúc thì xem con đò ở bến, lúc thì xem ông trăng mọc đầu nhà.

Nó lại ngoài cả người qua via bà và kêu to hơn:

- Mẹ đâu! Mẹ ơi!

Bà cụ dỗ cháu:

- À, mẹ Kiều đi chợ, sắp về với bé rồi… Ở, mẹ Kiều đón cả ông giăng về cho bé nữa.

Anh trai trẻ kia giơ hai tay muốn đón cháu, nhưng nó quay ngoắt đi.

- Mẹ bế em cơ!

Người trai rân rần nước mắt cố hỏi, bà cụ một lần nữa như muốn chặn ngang tiếng khóc sắp bật ra.

- Cô Phong Kiều còn ai ruột rà thân thích ở đây không cụ?
Bà cụ lườm anh một cái, như hơi giận về câu hỏi đó. Cụ nói to và rành mạch hẳn:

- Cả làng, cả nước này, ai mà chẳng là ruột rà thân thích với cô cháu của tôi. Mà trước hết, còn ông cụ sinh ra cô ấy chứ. Đây, anh rẽ vào ngõ này, đi một quãng, thấy cái cổng tre, có hai cái chậu to hình quả phật thủ, men vàng rộm lên, trồng cây quỳnh xum xuê, là nhà cụ Hồng Châu, bố đẻ ra cô Phong Kiều đấy.

- Thế ư? May mắn cho cháu quá. Cháu cảm ơn cụ. Cháu đến ngay đây.

- Thì gượm đã. Tôi cũng phải nói có đầu có đuôi, có gốc có ngọn đã chứ. Bà mẹ sinh ra cô ấy mất sớm. cụ tổ nội nhà tôi có đưa tiễn bà qua đê về với đất làng, sau truyền lại cho con cháu biết truyện bà Hồng văn sinh ra cô Phong Kiều vừa được đầy năm thì thoắt cái qua đời, đâu như mới ngoài mười tám tuổi. còn ông cụ dồn hết lòng thương tiếc người vợ trẻ vào đứa con gái, nuôi con chăm chút từng ngày, dạy con đến tuổi mười tám, gả chồng cho con, ngờ đâu anh chàng rể lại như thế, bây giờ con gái bỏ nhà đi, ông cụ bơ phờ, sinh bệnh nặng nằm kín trong buồng ấy, không muốn tiếp ai đâu. Chính ông cụ đã làm ra những hình dáng màu men quý nhất vùng này từ mấy thủa nay rồi. Hôm qua, tôi có sai con dâu tôi sang nâng giấc cụ, nấu bát cháo kê vàng đậu xanh mời cụ gắng ăn một chút mà tỉnh lại. Nhưng ông cụ vẫn chưa ăn uống gì được, cứ ngồi đăm đăm thương nhớ con gái, người héo khô đi như cái lá sắp rụng… Anh có đền thì cũng đừng có hỏi gì nhé, cụ không trả lời nữa đâu… Giá như anh mời cụ ăn được một thùa cháo, hay ăn được một múi cam, thì tôi mừng lắm đấy và biết ơn anh lắm đấy.

Người trai tìm đến nhà cụ Hồng Châu. Đứng giữa hai chậu cây quỳnh có một anh con trai vẻ ít tuổi, đang vẩn vơ vun …a lá, hình như chỉ là đang đụng đậy mười ngón tay vào …g không tìm kiếm một cái gì vô hình, mong manh lắm vì … gương mặt anh cứ hướng lên trời xa mà hò hỏi, đợi một tiếng trả lời của gió, cảu mây hoặc là của sấm chớp bởi chưng cùng lúc ấy, chiều đã ngả bóng rồi, ở phía Đông, một khối mây đen đang nhanh chóng ùn lên làm tối sầm đến quá nửa làng. Trong một tảng mây ấy chốc chốc lại téo ra những ánh chớp đỏ rực nổi rõ hình một cây đâm ngang bao nhiêu cành không lá chằng chịt bốc cháy. Tiếng ầm ĩ xa như tiếng xay lúa lúc 
nửa đêm.

Hai người nhìn nhau.

- Bạn hỏi cụ Hồng Châu ư? Vâng. Nhà cụ đây. Thầy dạy tôi nghề gốm đây. Cụ vừa đi đâu, từ sớm lắm, có lẽ lên bờ đê hóng mát hay ra bến hỏi thăm thuyền mà có lẽ thầy đi tìm con gái. Trời sắp tối. như sắp có mưa báo, tôi lo quá, thầy vẫn chưa về.

- Biết cụ đi hướng nào mà tìm con gái, bạn chỉ bảo giùm tôi với.

- Nhiều hướng lắm. Bắt đầu từ phía Kinh Kỳ, rồi đi lên hướng Bắc, rẽ sang hướng Tây rừng sâu núi thẳm, rồi Tây Nam, Đông Nam, ra phía biển Đông bát ngát. Cũng gần thôi. Cứ cho là vào khoảng vài ba trăm năm hay một nghìn năm, cụ sẽ tìm lại thầy con, mời anh ở lại đây với tôi, chờ cụ. Tôi đoán chắc thế nào cụ cũng sang bên Đông Triều Chí Linh. Ở đấy hình như từ đời Kinh Dương Vương. Các cụ già vùng Bát Tràng đã đến lấy đất sét trắng, lấy các loại đá mềm, đá rẻo đủ màu sắc. Khuân về đây làm đẹp làm giàu cho quê hương chúng tôi.

Thấy người lạ mặt tỏ vẻ băn khoăn, anh học trò ấy nói thêm:

- Hay là nếu bạn cần gặp cụ ngay, mời bạn đến Đông Triều…

Đông Triều Núi đá. Đồi thông. Suối trong. Hang động triền miên.

Đông Triều không năm tháng chỉ một màu xanh những cung bậc, nhiều dáng vẻ xanh.

Người trai trẻ đã gặp anh thợ đục đá. Đục đá tìm ngọc cũng như chàng trai ấy biết bao năm đi tìm tình yêu và sự sống.

Anh gặp người thợ đục đá Đục trước lều cỏ. Người thợ hiểu lòng anh, đã dẫn anh trèo đèo lội suối, rẽ cỏ vén mây đến gặp cô gái Phong Kiều.

Phong Kiều đây. Một khối đá hình người, dáng hình một cô gái thủy chung chờ đợi. người con gái đá ngồi nhìn chân trời, hai tay ôm lấy trái tim mình như đang đập quá mạnh trong lồng ngực đá, đôi mắt như vẫn bàng hoàng phấp phỏng lo âu sợ một cái bóng mê hồn nào đó mong manh sắp vỡ.
Đông Triều… không năm tháng.

Người thợ đá kể rằng:

- Thủa ấy Phong Kiều đi tìm chồng, đến chỗ này thì hơi tàn sức kiệt, ngã xuống và hóa đá. Tôi vác rìu đi qua đây, còn kịp nghe thấy một lời nguyền, nghe nhỏ nhẹ như tiếng con chim kêu ngoài vườn, nghe âm vang, cao rộng sâu xa như lời thần núi, thần sông từ nghìn vạn năm qua. Lời nguyền này tôi đã khắc vào vách đá trên kia. Cứ đêm nào có bão giông, sấm chớp, mưa đổ xuống ngàn như thác lũ, thì vách đá trên kia rung chuyển và lời nguyền lại lọt vào giấc ngủ của tôi trong lều cỏ:
“Bao giờ chồng em trở về, biết ăn năn, biết tiếc thương em mà khóc đẫm cả thân hình cô gái đá này để được tắm trong nước mắt thơm ấm tình người ấy, thì em sẽ sống lại, tươi đẹp như ngày nào em mới yêu anh…”
Đông Triều, không năm tháng…

Người trai trẻ ấy ở lại Đông Triều, không về đâu nữa, cũng làm một túp lều cỏ ngay bên cạnh người con gái đá, … leo lưng chừng núi, để đôi lúc được nghe cô gái Phong Kiều trò chuyện, cả những đêm có trăng và những đêm mưa, những đêm giông bão…

Anh kết bạn với người thợ đá, và thấp thoáng mơ hồ hình như có một chiều màu tím nhạt, cả hai anh đều nhìn thấy ai như dáng Phù Du lận đận đuổi theo nhan sắc, và xa kia nữa, ai như dáng ả Thương Lệ mải miết đi tìm ngọc, tìm vàng…

Rồi một sớm mai nào, hai anh gặp cụ già Hồng Châu chống gậy leo núi, vượt rừng, lặn lội đi tìm con gái. Người nghệ sỹ tạo hình trên gốm muôn đời ấy tìm thấy con gái mình hóa đá.
Cụ không than thở, không rầu rĩ, cụ nhờ hai người trẻ tuổi làm chiếc cáng bằng mây song, nhổ một khóm trúc vàng thanh tú làm đòn khiêng, lấy hoa rừng kết mái, lấy cỏ lá khắp Đông Triều, Chí Linh làm nệm, nhấc Phong Kiều lên đặt vào kiệu quê hương ấy, và ba người đưa cô gái đá về làng, nơi Bát Tràng xanh xưa, nhà nhà vẫn mở cửa chờ trông.

Xong, người thợ đá lại trở lại Đông Triều, đục đá. Tiếng rìu phang vách núi cứ vang vang ngày tháng Hải Đông.

Người trẻ tuổi mê tìm tình yêu và sự sống thì cứ quẩn quanh bên cô gái Phong Kiều đã đợi chờ. Anh cũng đã giã đá làm men, nhào nặn đất làm xương, theo ý cụ Hồng Châu tạo nên những vóc dáng của quê hương đẹp khỏe thanh tao, tạo những màu men, đượm thắm tinh khiết. Nhưng Bát Tràng vẫn không năm tháng và người con gái đá ngồi bên thềm hướng Đông, đón nắng mai, đón ánh trăng lên, trăng muộn, đón đủ cả mưa nghiêng, bão rớt, nắng gắt và sương lạnh đêm đêm, vẫn sầu tư, nóng rát hai vai, chờ đến bao giờ được tắm trong nước mắt?
Bát Tràng, bến về những con đò lá trúc. Chiều nào người trẻ tuổi cũng làm thay tấm lòng cô gái đá, lững trông xuống bến đò chờ đón anh Phù Du. Và chiều ấy, nghìn năm mong đợi, đá nhuốm hồng bến cái. Anh bống thấy một người tơi nón lá, xơ xác, ngẩn ngơ, nhờ một con đò lá trúc ghé vào mà gót chân dùng dằng trên cát mịn, hai cánh tay khẳng khiu vươn ra như muốn ôm chầm lấy cái gì vô hình đang lửng lơ đu đưa trước mặt. Lại bỗng nghe thấy con trẻ trên bến cười vui, reo hò:

- Ô kìa, anh Phù Du! Làng nước ơi! Anh Phù Du về với chị ấy đây rồi!
Đúng là Phù Du, sau bao nhiêu năm tháng cuốn theo Thương Lệ đã tuyệt vọng trở về. Anh Phù Du tâm sự với người bạn trẻ mới gặp:

- Kẻ nhan sắc lộng lẫy, vàng bạc châu báu, con người ấy đã ruồng bỏ tôi rồi, và nó cũng tự ruổng bỏ cuộc đời mình bằng cách trượt chân ngã xuống vực sâu trong một ngày lặn lội đi tìm một hạt ngọc quý mà người thợ đục đá Đông Triều vô tình đã để rơi bên khe núi. Còn tôi, bây giờ làm sao chuộc lại lỗi lầm xưa với vợ tôi. Phong Kiều với thầy tôi, Hồng Châu.

- Thì anh hãy đem nước mắt ăn năm mà tắm cho người vợ hóa đá của anh đi.

Bát Tràng, không năm tháng.

Từ thuở ấy, Phù Du ngày đêm ôm người vợ đá mà khóc.
Cụ Hồng Châu hứng nước mắt ấy, lấy đá ở thân con gái giã thành bột, hòa lọc thành men, mà cụ đặt tên là “Men đá vàng”.

Cụ đã tạo dáng đôi bình long phượng cao to bằng với người con, luyện men vàng đá phù lên, lung linh như màu mắt mê cung của cô gái Phong Kiều.

Rồng đắp nổi, màu son của đất pha ánh biếc của nước men cuốn từ chân lên miệng bình, nền da bình trắng ngà như mười người con gái đoan trinh, theo ý tứ nước men của cụ gây nên màu men rạn, như trong mơ màng của anh Phù Du, nhìn thấy tóc … về đan lưới với trầm hương.

Phượng đắp nổi, màu vàng của ngô lúa pha ánh hồng và những rạng đông thần thoại từ trên miệng bình, dang cánh xuống ngậm vành trăng bồng bềnh sóng biển, như trong hồn nghệ sỹ Hồng Châu vẫn thấy Duyên kiếp vò nhầu xẻ nửa vằng trăng lạnh lẽo. Vẫn cứ nước da người con gái đoan trinh, trắng ngà da bình, rồi cũng sẽ hiện màu men rạn, chặng chịt dọc ngang như tia máu đan mành che bão táp…
Thôn Bát Tràng xanh vẫn đi xuyên qua năm tháng…

Đôi bình đi vào lò nung.

Anh Phù Du ngày đêm canh sức lửa.

Bao nhiêu ngày đêm, anh đếm… chừng sắp mỏi tâm can thì cũng bấy nhiêu ngày đêm cụ Hồng Châu nghe lửa reo chừng sắp mòn tuổi tác, mà đôi bình vẫn không chín, men đá vàng không chảy.
Dân làng Bát Tràng không nản chí, cứ miệt mài rỡ cả nhã lẩy tre lẩy gỗ tiếp sức cho lửa vàng, ngày đêm mong đợi gốm ra lò, cho Phong Kiều sống lại.

Bát Tràng vẫn không năm tháng. Đôi bình long phượng vẫn đứng trong lò, cả làng gốm vẫn giữ gìn chăm nuôi ngọn lửa sơ sanh lửa thạch anh, ấy vẫn đêm mùa đến khi mọ người đều nháo nhác vì ngọn lửa thiêng kia như sắp lụi mà đôi bình vẫn non dại, ngây xanh như trái bầu vừa rụng rốn, cả thôn gốm chìm dần trong đêm nặng nề, xám lạnh thì chợt một trận gió mạnh từ phía Đông Triều quật sang lồng lộng, và ở lối vào các cửa lò, người thợ đá Hải Đông hiện ra sừng sững. Anh đem về một bó hài cốt, nắm xương nguyên vẹn của ả Thương Lệ, anh nhặt được trong khe rêu vực sâu. Cụ Hồng Châu đỡ lấy bó hài cốt, hàm răng người chết còn nghiến chặt viên ngọc dạ quang, ánh xanh lóe xa đến mấy dặm, đó là ngọc quý giá mà năm xưa anh thợ đá để rơi, rồi ả Thương Lệ cố tầm bằng được. Cụ Hồng Châu quăng tất cả vào lò lúc đó củi sắp tàn, than sắp vạc. Thế là nổi lên một trận cuồng phong,… như tiếng trời long đất chuyển rồi lửa lở rực sáng gấp… ngày thường, cả thôn Bát Tràng bỗng bừng lên một màu vàng kỳ diệu, khiến tất cả những gò má xanh xao của bao nhiêu khuôn mặt vò võ chờ đợi đều ửng lên màu tuổi dậy thì và không gian ngân nga, véo von những tiếng hát, xa lạ mà gần gũi, quen thuộc như tiếng hát của những cô nàng đi cấy đêm trăng, những người mẹ ru con trưa hè đưa võng.
Gần qua đem thì đôi bình long phượng ra lò, dân làng nhảy nhót theo từng nhịp trống cái sân đình. Giữa một rạng đông hùng vĩ, nước sông Hồng cuồn cuộn chảy trời Bát Tràng bao la xanh, từ chiếc bình men ranh nổi hình con phượng muôn màu ngậm mặt trăng nghiêng, cô gái Phong Kiều vươn vai đứng dậy. Trước tiên là một làn khói mỏng óng như tơ tằm bay lên rồi đến mái tóc xõa viền quanh khuôn mặt rạng rõ hiền hòa, đôi mắt sáng ngời sâu đậm, toàn thân đẹp vô cùng tinh hoa đất nước.

Trong bản tình ca hòa tấu tuyệt diệu của âm thanh màu sắc đường nét núi sông cây cỏ. Phong Kiều múa rẻo bàn tay làm hoa mưa hoa nắng. Cụ Hồng Châu đắm nhìn công trình sáng tạo tuyệt vời của con người Việt nam và của chính Phù Du cùng đắm nhìn hiệu quả của bao nhiêu đau thương và nước mắt như anh chàng trẻ tuổi đi tìm tình yêu kia thì vẫn ngỡ ngàng, tưởng mình đang ngủ mơ. Anh đến gần Phong Kiều, anh đã mạnh dạn cầm tay nàng, bước lên như muốn ôm lấy dáng hình tuyệt mỹ ấy thì Phong Kiều trượt khỏi tay anh, anh tưởng như mình ôm vào một làn mây mỏng mảnh. Anh phải kêu lên:
- Ôi Phong Kiều! Em sống thực hay chỉ là ảo ảnh?
Nhưng Phong Kiều vẫn đó, người trai trẻ cứ đến gần sát bên nàng thì nàng lại uốn lượn thân hình chập chờn, đến … chỉ một vạt áo anh cũng không sờ mó được tận tay! Phong Kiều vẫn làm chủ một vũ khúc kỳ ảo. Lúc nàng cầm tay Phù Du đưa lên, lúc đến kề vai anh Hải Đông Trường Thạch có lưới rìu loang loáng quanh nàng để ngăn che mưa bão. Và khi ôm cả hai vai anh, nàng run rẩy đặt môi hôn lên vầng trán sáng ngời như thèm ngửi mùi thơm hoa lá bên khe đá Đông Triều, và đến khi lướt gần kề vài người trai trẻ, nàng chỉ nhìn anh đằm thắm, miệng nở nụ cười quyễn rũ lùi đi rất xa.

Ngày tháng vẫn trông trên vũ khúc gốm Bát Tràng uyển chuyển. Tất cả vẫn là thực. kia vẫn cụ Hồng Châu … … dáng hình, vẫn anh Phù Du làm bột đá gây men, vẫn bà cụ bé cháu cùng anh chuyện trò chiều ấy. Vẫn anh học sinh nghề gốm chiều ấy đã chỉ hướng anh đi về phía Đông Triều tìm cụ Hồng Châu, vẫn dân làng đang đổ mồ hôi lọc đất, nhóm lò, và cô gái Phong Kiều đang múa hát nhịp nhàng… Tất cả vẫn đi trước mắt anh đó, có sao đến lúc anh ùa được vào lòng cô gái trẻ đẹp kia, vòng tay anh thắt chặt thân nàng kiều diễm thì anh đã như trút hơi thở cuối cùng, anh ngã nhào trên hai cánh tay mềm mại của nàng. Nét mặt vẫn tràn trề sau mê, da diết, toàn thân vẫn rung lên như một cây đàn, phút chốc anh đã hóa thành cây đàn tranh, phát ra những âm thanh bỗng trầm, dồn dập. Nắng Bát Tràng đang vàng sẫm da cam bóng ngả về cõi xanh huyền diệu của những đêm trăng thu Kinh Bắc. Không ai nhìn thấy nữa người nghệ sỹ già Hồng Châu, bóng anh Phù Du cũng tan biến tự bao giờ và bóng anh Hải Đông thợ đá chỉ còn như một ngọn núi xa mây phủ, cả dân làng đang đông vui nhọn nhịp đã chìm dần vào ánh trăng như sương xanh phủ đồng quê, còn lại chỉ là một cô tố nữ mơ màng, tay ôm cây đàn tranh, tạo những nét đắm chìm mê say và bí ẩn trên nền trời màu xanh thiên lý, màu … xa xưa.

Bát Tràng, cuối năm 1973.

Thứ Ba, 13 tháng 12, 2011

Dạ Điệp Thoại

Họ đi vào lõa lồ em
Khát thèm nhục dục
Vài trăm nhét vào khẳm kín
Mai... có cái bỏ mồm

Về đâu?
Sông quê rộng lòng!
Em nào dám tắm
Thân đà nhơ nhuốc lắm,
cuối nguồn...
Mẹ già múc nước thổi cơm.

Tình yêu?
Không biết là tốt hơn!
Kim Trọng từ lâu theo khủng long tuyệt tích
Sá chi em không được nửa Kiều

Nhìn nốt chút nắng chiều
Quay lưng em bước
Bóng đổ về đằng trước
Một cánh bướm đêm bay!

2005 -2010
Nguyenzz (Tái chỉnh)

Thứ Bảy, 3 tháng 12, 2011

Nhớ thương Gen...

Ơ kìa cái kiếp lênh đênh
Yêu cho đến độ phải đành xa nhau
Còn mong gì nữa... ngày sau
Đau chi bằng nỗi người đau vì mình

Đêm ngồi với những thênh thênh
Nhớ em ngồi ngắm bức hình mà say
Đã đành nhớ mượn thương vay
Biết bao giờ trả những ngày còn em

Dẫu là mới chỉ vài đêm
Mà sao như thể không em vạn ngày!

03.12.2011