Chủ Nhật, 1 tháng 5, 2011

Phiếm đàm: Từ nhà ra ngõ

CỘNG MỘT TÝ
TRỪ MỘT TÝ
Còn nhớ, lúc sinh thời, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh có viết một cuốn sách chống chủ nghĩa cá nhân. Trong tác phẩm đó, Đại tướng đã nêu một công thức rất ký thú để nhận rõ bộ mặt thật của những kẻ cơ hội cá nhân. Đó là công thức Cộng một tý – Trừ một tý.
Đại tướng nói: Phàm những ai khi tự đánh giá mình và đánh giá đồng chí đồng nghiệp mà cứ tìm cách cộng một tý ưu điểm cho mình, trừ một tý ưu điểm của của người; và ngược lại tìm cách cộng một tý khuyết điểm cho người, trừ một tý khuyết điểm của mình – Đối với những kẻ như vậy, cứ nhắm mắt bảo rằng đó là kẻ cơ hội cá nhân cũng đố cóc sai.
Hơn bốn chục năm đã qua, càng suy ngẫm càng thấm thía các công thức mà Đại tướng đưa ra; thật đơn giản mà cũng thật thâm thúy. Một con người dù ở cương vị bình thường nhất nhưng cứ thường xuyên được cộng một tý ưu điểm, trừ một tý khuyết điểm thì lâu dần con người đó sẽ “tròn vo” như quả bóng, muốn “lăn” đến đâu chả được. Cần làm trưởng phòng thì “lăn” ghế trưởng phòng, cần lên phó sở thì “lăn” ghế phó sở. Còn một người dẫu có năng lực, uy tín nhưng cứ bị gậm nhấm dần bằng cách nay trừ một tý ưu điểm, mai cộng tý khuyết điểm thì sẽ như quả bóng bị chọc nhiều lỗ cho đến khi xẹp lép. Những kẻ tội nghiệp đó chẳng khác gì một cơ thể khỏe mạnh béo tốt nhưng cức bị róc dần từ da đến thịt, từ thịt đến xương, làm cho tấm thân tàn lụi như bộ xương khô chỉ còn cách… đem nấu cao.
Nhắc lại công thức cộng một tý – trừ một tý của nhà chính trị – quân sự đã quá cố để liên hệ đến công cuộc cải cách hành chính của ta hiện nay. Bởi vì, trong cuộc cải cách đó, nhiều ông giám đốc, nhiều vị thủ trưởng đang triệt để sử dụng công thức cộng một tý – trừ một tý để thực hiện ý đồ cá nhân của mình trong việc đánh giá, sắp xếp cán bộ.

BIẾT SAI MÀ VẪN PHẠM
Tôi hơi bị đông con, nên để lần hồ cho con ăn học, tôi từng kiệm hết mức, tý nữa thì thành cố tật. Trong nhà, từ miếng ăn, từ mua sắm vật dụng gia đình, đến nhu cầu sinh hoạt hằng ngày của mọi người… tôi luôn luôn ki bo, chắt bóp và đưa tất cả về giới hạn nhỏ nhất. Ra ngoài, tôi tránh xa khoản hội hè, liên hoan, tiệc tùng vì ngại họ mời mình ba, mình phải đáp lại một. Hôm nào lĩnh lương, lĩnh thưởng, sang lắm tôi mới dám tạt vào quán cóc liêu xiêu nơi góc khuất, làm vài chén rượu và gói lạc mồi, vừa tự an ủi, động viên, vừa tránh gặp phải vợ con và bè bạn.
Có lẽ nhờ vậy, ngày ấy tôi được vợ con thương nhiều hơn bây giờ.
Thế rồi, từ khi được bổ nhiệm làm xếp một đơn vị có tài khoản riêng với con dấu nhỏ cỡ hăm tám li, tôi đâm ra khác hẳn, đến nỗi, không chỉ vợ con mà ngay cả chính mình nhiều khi cũng không nhận ra mình nữa. Để tỏ rõ là người năng động, người của công việc, tôi bỏ công sở đi đây đi đó thường xuyên và vì thế quán xá, nhà hàng, khách sạn… trong một thời gian ngắn tôi thông thạo hết. Trong các tiệc tùng, để tỏ ra là người chịu chơi, sành điệu và hết mình, tôi luôn mồm gọi bia, tay chỉ đồ nhậu, tay nữa cầm micro không cần ngã giá trước. Chứng từ chép tay nhưng viết mười trả mười; ghi mười lăm, thanh toán mười lăm… Chỉ có điều, khi quay lại mua cho con cặp sách, sắm cho vợ tấm khăn choàng bằng tiền của riêng mình tôi trở lại ki bo mặc cả từng đồng một.
Thì ra, làm bố không phải lúc nào cũng đúng. Tôi biết rõ quá đi chứ. Biết sai mà vẫn phạm. Nhiều lúc bản tính tằn tiện nhắc nhỏ tôi quay lại sống và sinh hoạt như thưở trước, nhưng rồi tôi chậc lưỡi cho qua. Bởi vì, nào đâu chỉ có riêng mình phạm phải cái sai? Nhìn ra, bao nhiêu người còn sai nhiều hơn ấy chứ! Không có tiêu chuẩn đi xe con, vẫn sắm xe đưa đón; suất phở ăn sáng, bữa cơm vẫn đưa kê vào tiền xăng dầu đi công tác; tiền hát phòng lạnh, tiền bo em út ghi mục chi phí giao dịch…
Có lúc tôi tự hỏi: không chừng, nhiều cái sai, nhiều người sai cộng lại thành một cái đúng?
Cho hay, thấy sai mà vẫn phạm đang là hiện tượng khá phổ biến, xin bạn đọc cứ lấy tôi đây làm ví dụ.
 

SAO ÔNG NÉM VỠ NIÊU CHÁU
Thưa ông!
Hôm nay cháu muốn được thưa cùng ông câu chuyện mà từ lâu cháu hằng ấp ủ. Lần lựa mãi, vì cháu sợ nói ra sẽ làm mếch lòng ông, điều mà cháu ngại nhất hiện nay.
Hẳn ông còn nhớ, cháu được mẹ đẻ rơi trên chiếc thuyền câu, nơi đó có cả ông bà, bố mẹ cháu cùng sinh sống. Mẹ cháu sau khi sinh nhảu tùm xuống sông tắm táp qua loa, bọc cháu vào mảnh vải buồm, lăng nhẹ vào túm lưới rách buộc trong khoang thuyền làm võng. Không có bàn tay đưa, chiếc võng cũng chao theo nhịp sóng ru cháu ngủ ngon lành.
Cháu đã lớn lên như vậy với hương gió mặn mòi của biền và cháu là cái chẻ đất đước nắng lửa của sông ngày ngày nung ủ.
Kỷ niệm đầu đời của cháu là một đêm 30 Tết, bố dắt cháu ra trước mũi thuyền, chỉ lên bầu trời cao, rồi dạy cháu cách nhìn trời đêm bao mươi để đoán định mùa màng, dạy cách nghe tiếng sóng, tiếng gió, ngửi mùi con chuồn, con nục mà biết năm tới sẽ được mùa lộng, hay được mùa khơi.
Ôi! Thủa ấy mặt biển yên bình làm sao. Chiều chiều các bà, các mẹ và bầy trẻ nhỏ long tong dồn mắt ra nơi cửa lạch, nhìn mũi thuyền vục lên, vục xuống mà vui.

Chiến tranh đã qua, hòa bình đã tới, đáng ra cảnh vui ấy phải lớn rất nhiều lần mới phải. Nhưng, thưa ông trong cháu phảng phất có một nỗi buồn khó tả. Hằng ngày ông vẫn ra biển, nhưng trong rương, trong tráp của oong không chỉ là chai rượu, bò gạo, gói thuốc như ngày nào mà lỉnh kỉnh có thêm ắc quy, kíp mìn, thuốc nổ…
Ông ơi, có phải vì ông sợ đã ra biển rồi nếu không ném mình, không bật kích điện… thì ở nhà bà, mẹ và các cháu không có gì để sinh nhai chăng?
Cháu còn trẻ người, cạn nghĩ, nhưng cháu tin đời ông gắn bó với thuyền và biển lắm. Con tôm, con cá dù ở khơi hay ở lộng, dù đã to hay còn bé là của chim, của nổi mà mấy đời dòng họ nhà ta lấy máu và nước mắt để hồi môn lại cho cháu con.
Ông biết đó, Nhà nước sớm hiểu nghề biển vất vả. Khó khăn, nên mới lập ra chương trình đánh cá xa bờ, thẩm duyệt các dự án nuôi trồng, khai thác, chế biến thủy sản các loại với tổng mức kinh phí hàng năm tiêu tốn đến chục ngàn tỷ. Ông cháu ta, phải nghĩ cách lập thân lập nghiệp khác thôi ông ạ.
Ông hứa với cháu đi! Nếu không, cháu sẽ giận đấy, cháu sẽ nói xẵng lên rằng: Ôi! Ông ném mìn vỡ niêu cháu mất rồi!
 
LAN MAN CON S PHN TRĂM
Các nhà bác học sở dĩ được coi là vĩ đại, có lẽ vì họ tìm ra được cái cực kỳ lớn lao trong cái cực kỳ đơn giản. Ví như, người tìm ra hệ số đếm thập phân, chỉ với mười con số từ 0 đến 9 mà giải được bao nhiêu bài toán, từ năng suất cây lúa, sản lượng con gà… đến việc tìm ra quỹ đạo các hành tinh và ngày giờ va quệt của Sao Chổi vào Trái Đất. Hay như hệ số đếm nhị phân (cơ số 2), chỉ với số 0 và 1 với phương pháp đục lỗ đã làm ra chiếc máy tình trong 1 giây thực hiện hàng triệu phép tính phức tạp mà người thông minh nhất cũng không thể nào làm được.
Còn riêng con số phần trăm (%) ai là người tìm ra nhỉ? Tại sao không phong vị, phong hàm cho họ? 
Nào là phầm trăm kế hoạch hoàn thành, phần trăm được giữ lại khi thu tiền bán đất, phần trăm trích thưởng lúc thu vượt, phần trăm được hưởng khi ký kết hợp đồng mua bán, phần trăm ăn chia, phần trăm lãi suất, phần trăm cổ đông, phần trăm tín nhiệm, phần trăm số hộ đói nghèo, phần trăm gia đình văn hóa… (để tôn trọng bạn đọc, xin được dừng cái phần trăm tại đây).
Ngầm ra, mới hay rằng: người đời suy tôn những cái lớn lao ẩn chưa trong sự giản đơn, dung dị; còn như cái phần trăm, với trăm thứ bà rằn ấy, xem chừng dùng để khen đã không đơn giản mà chê cũng chẳng giản đơn! Này nhé, muốn có phần trăm vượt kế hoạch, thì chỉ tiêu kế hoạch ta cho nhỏ lại, muốn là cơ sở làm tốt công tác xóa đói – giảm nghèo, ta cho số hộ đói – nghèo hiện có ít đi, muốn có phần trăm lợi ích thì hãy kích giá trị hợp đồng lên hoặc vỗ cho giá dự toán béo phình ra…
Thế đấy, con số phần trăm với cơ man ý nghĩ uyển chuyển như vậy, dĩ nhiên rất khó đoán định, mà nếu đoán định được thì sai số cũng sẽ là phần trăm trúng, trật. Cái phần trăm ti tiện trong tôi được đưa ra để khen cái phần trăm cao quý trong anh, nghịch lý ấy hoạc có là trên bác học mới tìm ra phần trăm đúng, sai.
Rồi như phần trăm cơ hội của hai người cộng với phần trăm ưa nịnh của một người cho ta phần trăm tập thể ba người được gọi là năng động, nhưng đang kéo lùi sự tiến bộ dài dài.
Và bao nhiêu phần trăm ý thô thiển trong bài bào dài này được bao nhiêu phần trăm bạn đọc đồng tình? Điều này cũng phải có trình độ cỡ sau đại học dăm chục phần trăm mới tỏ tường được!
Thôi đành hạ bút! Hỡi ôi, con số phần trăm!
 
 
GIÁ MÀ…
Công đoàn một cơ quan cấp huyện ở chỗ tôi đùng là trầy lên, trật xuống không quyết được hai vấn đề: Một là, tiền xăng dầu công tác 50.000đ/người/tháng; hai là, tiền mua vé xe tháng đi lại với cung độ 25km cho cán bộ, viên chức. Xuất thân là con nhà kỹ thuật, tôi thấy công đoàn không quyết được việc cơm gạo – áo tiền này cũng có lý của nó, vì thiếu nguồn!
Bạn đọc thử tính sơ sơ thì rõ thôi:
       Tiền xăng cho 57 cán bộ, viên chức một tháng, ước xấp xỉ 3 triệu.
       Tiền mua vé tháng cũng của 57 cán bộ, viên chức là 14 triệu.
Một năm hết 200 triệu – đủ làm được một cái mương thủy lợi; hay xây dựng 10 căn nhà tình nghĩa.
Thế là nhiều năm đã qua, công đoàn cơ quan tôi được tiếng là công đoàn có thành tích động viên cán bộ, đoàn viên làm tốt phương châm: “Nhà nước và nhân dân cùng làm” nghĩa là – Nhà nước có việc làm, còn cán bộ viên chức tự bỏ tiền lương ra đi công cán; tiết kiệm hàng năm vài trăm triệu đồng cho ngân sách.
Nhưng, một người bạn làm quản lú, anh ta lại tính khác: cũng trong công đoàn tôi, hằng ngày có 5 chiếc xe con đưa đón cán bộ - cũng với cung độ 25km một chiều. Giá tiền taxi với cung độ ấy là 150.000đ/chuyến; vị chi một tháng, xấp xỉ 15 triệu; một năm, vị chi cũng xấp xỉ 200 triệu.
Kính thưa ông chủ tích công đoàn.
Khi còn đi học, tôi thấm thía một câu của nhà hiền triết: “có thể bỏ cả thành phố Pari vào trong chữ nhưng”. Vậy, trường hợp trên có thể nhái lại như sau: “ta hãy bỏ hết tiêu chuẩn xăng xe cán bộ đến cái nhà tình nghĩa vào trong chữ “giá mà…” được không?
       Giá mà… cán bộ lãnh đạo ít dùng xe đưa đón… thì…
       Giá mà… Nhà nước nghiêm cấm chặt chẽ tiêu chuẩn đi xe con… thì…
 
 
PHN NG PH
Trong công tác điều trị của ngành Y tế có hiện tượng: thuốc chữa được bênh này lại sinh bệnh khác, buộc các nhà khoa học phải tiếp tục nghiên cứu về các phản ứng phụ khi dùng kháng sinh. Vì thế, thuốc được gọi là tốt khi chữa được bệnh mà không xảy ra phản ứng phụ nào trên cơ thể con người.
Từ việc gây phản ứng phụ của thuốc, xin liên hệ những cơ chế, chính sách đã tạo ra phản ứng phụ của người tiếp nhận cơ chế chính sách đó:
Sau khi có chủ trương giảm mức thuế giá trị gia tăng, các đơn vị xuất nhập khẩu được nhà nước thoái trả thuế giá trị gia tăng (VAT) cho các lô hàng làm đủ và đúng thủ tục hải quan cửa khẩu (kể cả chính ngạch và tiểu ngạch). Thế là xảy ra một phản ứng phụ: một số doanh nghiệp, chỉ với một xe mực khô chở ra Lạng Sơn hoặc Móng Cái, đã vòng qua vòng lại 5 lần 7 lượt trước cửa khẩu Hải quan để được tính thuế (sau khi đã nâng giá cả lên cao rất nhiều làn so với thực tế mua vào) đem hồ sơ về địa phương xin thoái trả thuế giá trị gia tăng.
Nghệ An là một trong những tỉnh được Nhà nước ưu tiên cho phép buôn bán với nước bạn Lào với quy chế “hàng đổi hàng” không phải chịu thuế xuất nhập khẩu. Nghĩa là Nghệ An được phép mang hàng trong nước sang :ào và mua hàng của :ào về nước với phương thức đổi ngang giá, không chịu thueets xuất nhập khẩu. Thế là lại xảy ra một phản ứng phụ: các doanh nghiệp mua một số hàng tượng trưng thậm chí chở những kiện “hàng giả” sang Lào, lập khống hóa đơn đỏ, mang vàng và đô la qua biên giới mua hàng Lào, hàng Thái, hàng Trung Quốc ào ạt chờ về Việt Nam bán lấy chênh lệch giá mà không chịu một đồng thuế xuất hoặc nhập khẩu nào.
Viên thuốc dùng để chữa bệnh này đã gây nên bênh khác trên cơ thể con người là một phản ứng phụ thụ động, ít nhiều ngoài tầm kiểm soát của thầy thuốc. Còn việc lợi dụng cơ chế, chính sách của Nhà nước để kinh doanh trái pháp luật hoặc thu vén cho lợi ích cục bộ, địa phương là việc làm thiếu đạo đức của những người buôn bán không trung thực và cơ hội, cần cực lực lên án. Tác giả bài viết thiết tha mong các cấp Nhà nước khi đề ra một chính sách mới, cần chú ý đến những ‘phản ứng phụ” của kẻ chuyên tâm tìm kẽ hở trong chính sách để làm giàu bất minh.
 
 
 
ĐẦU VÀO, ĐẦU RA
Còn nhỏ, có một thủa, ở đâu, lúc nào ai ai cũng nghe và nói đến cụm từ “đầu vào, đầu ra”. Nào nguyên, nhiên, vật liệu cho sản xuất, nào chi phí quản lý, lãi suất tiền vay… nghĩa là tất tần tật những yếu tố cấu thành giá thành sản phẩm. Giỏi hay dở của nhà kinh doanh là chế ngự và điều tiết được đầu vào ở giới hạn nhỏ nhất. Đầu ra, cũng là tất tần tận những hợp đồng tiêu thụ, những thị trường béo bở, màu mỡ, những ưu ái về chủng loại, về tiêu chuẩn chất lượng và những điều kiện giao nhận, bao gói sản phẩm… trên cơ sở một đầu vào đã được xác định. Đánh giá một doanh nhân, một doanh nghiệp thành đạt hay không phải thông qua chỉ số đầu vào, đầu ra.
Như vậy, đầu vào, đầu ra vừa đòi hỏi tính hiệu quả trong sản xuất của người trực tiếp làm ra sản phẩm, vừa là yêu cầu bắt buộc đối với những nhà quản lý khi đề ra một phương án sản xuất bất kỳ.
Nhưng từ mục tiêu kinh tế củ thể đó, đầu vào, đầu ra ngày một biến tướng triềng sang lĩnh vực xã hội, làm nghiêng lệch, thậm chí làm méo mó ý nghĩa đích thực của nó. Hiệu quả kinh tế là đo đếm được, lượng hóa của nó. Hiệu quả kinh tế là đo đếm được, lượng hóa thành giá trị thiết thực, nhưng hậu quả của đầu vào, đầu ra ở lĩnh vực xã hội thì khó bề kiểm soát. Vì nó đã và đang tạo ra những đầu vào, đầu ra “dị dạng” đến mức người chân thực không tưởng tượng ra được.
       Đầu vào của cơ qua A là cần tuyển một kỹ sư kinh té, ưu tiên cho những người biết tiếng Anh và vi tính, lập tức có một kỹ sư đến xin việc với đầu đủ bằng cấp các loại nhưng chưa qua trường đại học.
       Từ một con người chưa đủ phẩm chất và năng lực chộp được đầu ra là một trường phòng nghiệp vụ thì cũng nhanh chóng bằng con đường tổ chức, anh ta hợp thức hóa đầu vào của mình với các lớp đại học tại chức có ngành học và cấp học tương xứng. Họ làm như thế: Đại học tại chức – là đại học để những cái chức tồn tại.
Những kết cấu đầu vào, đầu ra kiểu này tự nó đã làm xói mòn lòng tin của tất cả những con người chính trực và đang nắn lệch dòng tiến hoác của xã hội ta.
 
MỘT ĐẦU VÀO KHÔNG CẦN BIẾT ĐẦU RA
Trong sản xuất kinh doanh và kể cả trong trao đổi buôn bán giữa các nước, đầu vào – đầu ra luôn luôn là bài toán khó giải. Ngay như người nông dân trồng hai cây na, đến cây thứ ba thì đã sợ na chín bán không ai mua. Bên cạnh đó, còn có một sự thật tưởng như là nghịch lý: Khi cả vừng chỉ có hai tạ vừng trắng thì bán không được, nhưng đến lúc Nhật chào mua hai trăm tấn, mình lại không có bán. Đó là quy luật cung – cầu, là đầu vào hoàn toàn phụ thuộc vào đầu ra. Đầu ra lớn bao nhiêu thì đầu đầu vào cũng lớn bấy nhiêu. Trong sản xuất kinh doanh là như vậy, liệu trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo của các hệ tại chức, hệ chuyên tu, hệ mở ở các trung tam giáo dục, dạy nghề, xúc tiếng việc làm… có xẩy ra tương tự không nhỉ? Mà sao ngày ngày trên các phương tiện thông tin, thường xuyên có thông báo tuyển sinh nào là lớp ĐH tài chính – kế toán, thương mại, xăng dầu… rồi đến lớp kinh tế – kế hoạch, lớp du lịch, ăn uống… của các trung tâm tỉnh và huyện.
Những con số hàng nghìn, hàng vạn sinh viên tốt nghiệp hệ chính quy ra trường còn chưa có việc làm, đang như thế mà đã là “ba thầy một thợ” rồi, bây giờ lại công thêm có số sinh viên hệ mở, hệ chuyên tu, tại chức nữa thì đầu ra sẽ nghẹn ứ đến đâu? Hay là chúng ta đang tiến hành phổ cập đại học cho tất cả mọi tầng lớp xã hội? Hoặc là nhu cầu của nền sản xuất xã hội thực sự đang đòi hỏi một đội ngũ kỹ sư, cử nhân lớn lao như thế?
Tôi cứ nghĩ quẩn thế này: Nếu như các giám đốc trung tâm đảo bảo cơ chế số học sinh họ đào tạo theo chỉ tiêu trúng tuyển khi ra trường, sẽ chắc chắc có đủ việc lằm, thì tôi e rằng các ngành, các khóa, các lớp đào tạo ắt sẽ teo tóp lại vì không có đầu ra. Nhưng hình như trong thực tế, có hiện tượng các trung tâm đang tìm cách đánh bóng và trang sức cho các chỉ số phát triển của trung tâm mình bằng số ngành đã mở, số khóa đã dạy, số lớp, số học sinh đã học, còn học xong có việc làm hay không họ không hề biết.
Đó có phải là chúng ta đang dung dưỡng cho một đầu vào mà không cần biết đến đầu ra?
 
 
 
NHÁI SẢN PHẨM
Đi gần hết cuộc đời tôi mới ngẫm ra một điều:
       Người nông dân bốn mùa bán lưng cho trời, bán mặt cho đất, làm ra hạt thóc, ta được hạt thóc thật.
       Người ngư dân bầm dập quanh năm thưng nước mà sống, trơ gan với gió bão dể vớt từ đại dương bao la được con cá, con tôm, đời được con cá, con tôm thật.
       Người công nhân ngày ngày lấm len dầu mỡ, hết tiện đến nguội, phay, bào để làm ra con ốc, cái vít cho những cỗ máy; đó là con ốc, cái vít thật.

Tất thảy họ làm ra sản phẩm đều thật, nhưng lại sống với đồng lương dưới mức tối thiểu. Còn như, những người biết cách nhát được những sản phẩm tương tự: trộn một vóc tám thơm vào gạo lốc bèo, pha một tý phooc-môn vào bột bánh phở; hòa một tý hàn the vào cá ướp đá, nêm mọt thìa hóa chất vào nước mắm; mạ một lớp kim loại cho con vít, cái ốc,… thì họ lại sống phong lưu nhàn nhã hơn nhiều…
Như thế, liệu có phải là: người nào làm ra sản phẩm chính hiệu, thứ thiệu, người ấy sống khó khăn. Còn kẻ nhái được sản phẩm người khác, kẻ đó có cơ ân nên làm ra.
Tương tự như vậy, trong các cơ quan, công sở có một công chức cũng được dán mác dán tem, chẳng khác gì người ta nhái sản phẩm trên thị trường. Chạy một bằng đại học kinh tế có khi được ngồi ghế trưởng phòng… Kết quả, xã hội còn phải chịu thiệt thòi dài dài vì đang phải dùng sản phẩm nhái.
 
 
CÁCH NHAU CÁI GIẬU
Tôi với ông là hàng xóm láng giềng, vậy nhưng nghề nghiệp làm ăn hiện ở hai bộ chuyên quản khác nhau, nhưng từ lâu được coi là cùng một nền nông nghiệp cho nên cách nhau cái giậu… Thế nhưng, ngày ngày nhìn thấy ông hàng xóm đem thóc ra hong ngoài hiên, tôi thấy tủi tủi thế nào ấy.
Tủi có thể là vì yêu. Đã từng bán chị em xa, tôi quyết không để tự đánh mất ông hàng xóm láng giềng. Ghen! Vì biết ông thừa hưởng nhiều cái được: được chia ruộng, chia vườn, được hưởng mương máng thủy lơi, hưởng điện bơm nước, được nhận giống mới, công nghệ mới, được nhận phân vi sinh, thuốc bảo vệ thực vật,… Nếu mùa màng bị thiên tai bão lụt, hạn hán dịch bệnh, ông được Hội đồng kiểm tra đến xác nhận thiệt hại để rồi được giảm thuế, giảm phí, được giãn nợ vay… Gần đây, ông còn được cái trần giá tiêu thụ, được Nhà nước mua nông sản tích trữ chống rớt giá. Ông hơn tôi là đã được đi chân liền trên đất để làm ăn. Nếu có vay vốn thì cũng chỉ cần một, hai triệu đồng ông khắc cải biến được cuộc sống của mình.
Còn thân phận của tôi: biển trời khơi lộng mênh mông, không cần có Nghị định 60, 64, tôi cũng phải tự biết sắm lấy thuyền và lưới mà bươn chải, mà tự chịu trách nhiệm với đường đi nước bước của mình. Biển rất giàu tiềm năng, một bước đi nước bước đi là phải rải tiền rải của, cho nên chữ “bầm dập” chỉ nên dành để người ta nói về tôi vậy. Trong khi nặng nhẹ mẻ lưới còn biết trông trời, trông nước, trông mây như câu ca dao nọ. Rồi bão giá mất mùa, chìm tàu chết người… không Hội đồng nào đánh giá đủ, giải trình hết rủi ro này. Tôi đi chân chắp trên mặt nước để làm ăn, vay được năm đến mười triệu bạc chỉ như sắm được… cái đinh đóng đế giầy cho cuộc vượt trùng khơi. Thế mà: hạn mức, thời gian, lãi suất vay, hạn trở nợ… tôi với ông đang giao dịch một ngân hàng mà khoản được ưu
tiên còn cách nhau một trời một vực.
Theo ông, nên có một Ngân hàng thủy sản cho tôi không? Nếu được vậy tôi đỡ tủi thân với cái nghề “đem trứng chọi đá” này lắm lắm.
 
 
 
ĐI NGƯỢC T B LÊN A
Anh bạn tôi, khi chưa là chủ của một chữ A viết hoa (ban A) thì bạn có biết thế nào không? Gia đình anh bảy người sống trong một gian nhà tập thể rộng chừng hai chục mét vuông, với hai chiếc gường ọp ẹp. Cuộc sống hàng ngày của gia đình anh nói theo ngôn ngữ “mục tiêu” thì còn cách xa ngưỡng an toàn lương thực, còn theo cách nói của nhà hoạch định chính sách thì chỉ vừ đủ tiêu dùng nội bộ, chưa đạt yêu cầu xuất khẩu. Đồng lương anh với hệ số là con số 4 đứng đầu thì còn lâu mới đổi được đời.
Thế mà, xa anh mấy năm, giờ gặp lại, tôi cứ ngớ người ra: Nhà ba tầng mặt phố, mái ngói đỏ au rặt những hình chữ A lồng ghép trông mát mắt. Cửa ra vào, cửa sổ các tầng lắp toàn kính màu vàng ươm phản chiếu ánh mặt trời sóng sánh như thể căn nhà là một vại bia khổng lồ.
Vốn là người ham hiểu biết, tôi cất công tìm hiểu và học hỏi.
Thì ra, sự tăng trưởng kinh tế của gia đình anh khởi đầu từ chữ A viết hoa. Có phải là nhờ vào lộc lại quả của lòng thành kính mà vợ anh mồng một, ngày rằm khấn vái nơi cửa chùa nên bỗng dưng anh được làm chủ một A. Vâng, anh lập thân lập nghiệp từ bước chân đầu tiên vào chữ A của chương trình đánh cá xa bờ. Đã có A thì phải có B. Có B mẹ thì phải có B con, có B một phẩy và B hai phẩy… A xa bờ, nhưng gần gũi sau lưng là B hợp tác xã, B đóng tàu, B lắp máy, B cung cấp thiết bị, B đăng kiểm,… Đồng tiền không có mắt, nhưng nó có chân, tự nó biết tìm đường để đi.
Được rồi, rồi đây cán bộ, đảng viên sẽ phải công khai thu nhập và nguồn gốc tài sản. Thiết nghĩ, nếu tìm nguồn gốc thu nhập từ A thì khó lắm. Xin gợi ý là hãy đi ngược thừ B lên A theo kiểu tra trong sổ tay Trần Hồng Sơn vụ án Mường Tè.
Biết làm thế là trái với quy luật ngôn ngữ, chữ viết thông thường, bởi khi học vần, khi xác lập các danh mục, khi lập phiếu bầu cử… đều phải theo thứ tự A – B. Riêng về vấn đề vừa nói trên hẳn phải đi ngược từ B lên A mới mong hiểu rõ ngọn ngành.
ĐỒNG VÀ CẢM
Do tổ chức phân công, tôi và anh khác nhau về thang bậc và địa vị xã hội. Tuy vậy tôi và anh là đồng niên, đồng hương, đồng chí và có cùng ý nguyện là muốn làm một cái gì đó cho quê hương, không phải để lưu danh mà là để một mai về già khỏi phải hổ thẹn với nơi đã sinh thành, giáo dưỡng chúng tôi nên người.
Với cương vị là Chủ tịch một huyện, anh làm được nhiều việc lắm. Tôi không nói, thì rồi lịch sự một Đảng bộ, một vùng quê sẽ nhắc về anh. Thế hệ tôi không nói, hẳn rồi thế hệ kế tiếp sẽ ghi nhận và nhắc nhở về anh. Tôi nhớ mãi một cuộc họp mà anh – với cương vị Chủ tịch, ngồi đối thoại trực tiếp với 75 hộ dân của một xóm đói và nghèo nhất huyện. Anh có sự sẻ chia, có nỗi đâu và niềm trăn trở với từng con người, từng hoàn cảnh… và hơn thế, anh đã đưa ra những giải pháp vừa hợp lòng dân vừa thuận ý Đảng. Trong sâu thẳm lòng tôi, tôi cứ ao ước, anh sẽ đi và đến với tất cả những thôn xóm nghèo trong huyện theo cách cuốn chiếu này, thì chẳng mấy chốc huyện nhà sẽ vững bước tiến lên.
Nhưng, mấy ngày sau đó, tôi lại được biết anh đã ra những quyết định mà trong thâm tâm tôi không cảm được. Ấy là, anh đã trích từ ngân sách để lên một đời xe, lắp đặt và trang bị những dụng cụ đắt tiền cho các đồng chí lãnh đạo với tổng kinh phí đủ để xóa đói giảm nghèo cho hơn một lần xóm nọ.
 
Thì ở đời có rất nhiều cái đồng và chưa hẳn có một cái cảm.
 
 
 
THỊ VÀ XÃ
Là một nhân viên của một doanh nghiệp chuyển về làm ở thị xã, thuở đầu, tôi cứ ngỡ ngàng, lúng túng với bao nhiêu ngôn từ được tính – danh hóa, và như thể cả tiền – lượng hóa trong các văn bản hành chính. Thôi thì, thị là khác thành, phường thì khác xã, khối không giống xóm… Cũng rồi thì, trưởng công an phường khác xa phó chủ tịch phụ trách nội chính xã cả về tiền lương và chức vụ… khác như tiền lương với phụ cấp vậy. Cứ thế, nhiều điều rối rung trong cái đầu bé nhỏ và chậm hiểu của tôi. Lâu rồi, tôi cũng tập làm quen với hệ thống ngôn từ này. Nhưng, rồi cũng lâu dần, tôi mới ngẫm ra và thu nạp được đôi điều lý thú trong bộn bề từ ngữ thị và xã kia.
Ví như, một cán bộ xóm được điều lên xã và từ xã lại điều lên thị, thì đó là lên chức, lên lương. Cái sự tuần tự nhi tiến thế kia cho đành một nhẽ là khi danh đã chính, thì lương cũng thuận. Đằng này, có người bị kỷ luật hay bị huyền chức ở xã, nhưng được nhấc bổng lên thị nhằm tránh cho người qua cơn bĩ cực, cũng cứ vẫn lên chức, lên lương.
Ví như, cán bộ xã có thể vì số lượng nhiều hơn thị nên chưa có điều kiện chuẩn hóa, nhưng đã là cán bộ thì phải có văn bằng, chứng chỉ để thuận phẩm, hợp hàm. Vậy nên, cán bộ thị và xã quê tôi rất nhiều người có đến hai, ba bằng đại học. Hỏi ra mới hay:
Ta về ta học huyện ta
Dù trong dù đục vẫn là cử nhân.
Chắc là họ đã nghe ở đâu đó, tiến tới trong tổ chức bộ máy có sự điều chuyển, sắp xếp cán bộ từ trên xuống và từ dưới lên. Vì vấn đề ấy được coi là nhân tố phát triển. Chi bằng chuẩn bị học trước đi là vừa.
Thì ra, thị và xã có thể hoàn toàn khác nhau và cũng có thể giống nhau, vì khi đọc lên hay khi viết ra giấy nghe cứ nằng nặng một vẫn trắc. Để cho câu thơ lục bát đồng quê thiêu thiếu âm hưởng một vần bằng.
 
CÓ THẬT “THUỐC ĐẮNG DÃ TẬT”?
Tôi có người bạn đúng là thật hết chỗ nói. Nghe và nhìn thấy điều gì không nên không phải thì y như rằng anh phán một câu xanh rờn, làm người nghe như nuốt ực phải viên thuốc đắng.

Bạn đọc không tin à?
        ●       Một lần đến phòng văn thư để đóng dấu cơ quan, cô văn thư vừa ỷ thế người nhà thủ trưởng,  vừa cậy mình cầm con dấu quốc huy, bỏ ra ngoài không nói năng gì.
Anh xô ghế đứng dậy: - Làm ăn kiểu này thì nên dẹp đi!
       Là đại biểu được mời dự một lễ ra mắt câu lạc bộ Hội KHHGD của một xã công giáo, vị Chủ tịch Hội phát biểu rông dài, nào là tỷ lệ tăng dân số của Châu Âu âm một, của Châu Phi dương năm, của Châu Á…
Không nhịn được, anh lại xẵng giọng: - Xin Chủ tịch cắt bớt đi cho…
       Và gần đây trong hội nghị bàn biện pháp cắt giảm biên chế hành chính theo quyết định của Chính phủ, ông phụ trách tổ chức trình bày tình trạng thừa biên chế, đối tượng cần giảm và giải pháp thực hiện.
Cũng vẫn là anh, rất sốt sắng, anh kê đơn: - Người nắm được chỉ tiêu và tiêu chuẩn cán bộ viên chức là tổ chức, người tiếp nhận cán bộ viên chức vào cơ quan cũng là tổ chức, thì trước hết tự các đồng chí phải tìm ra giải pháp…
Thật tình, nghe anh đốp chát như vậy, người nghe quả là có cảm giác gây gây như thể người đau xuất huyết trông thấy gói ký ninh. Nhưng công bằng mà nói anh trung thực với chính mình, và hơn thế, còn mang dáng vẻ hiền triết của một lương y. Cái phúc rất lớn của con bệnh là gặp thầy, gặp thuốc. Hãy bỏ ngoài tai cách nói và thái độ diễn đạt, thì anh là thầy thuốc giỏi và bốc đúng thuốc.
Đùng một cái hôm qua tôi nghe anh có quyết định nghỉ hưu.
À thì ra lời khuyên: “không nên nói hết những điều mình biết, nhưng phải biết hết những điều mình nói”, vận vào trường hợp anh đúng như là “thuốc đắng không dã được tật”.
 
KHEN ĐIÊU
Hình như từ xưa đến nay người đời chỉ quen với cách nói sau đây:
       Người mà có một, nói vóng lên thành hai, ba là người nói điêu.
       Những người bán thịt, bán cá hay rau dưa, hoa quả… có tám lạng lấy tiền một cân là những người cân điêu.
Người nói điêu vận vào trong cuộc sống, trong sinh hoạt, trong giao tiếp là luôn luôn nói quá lên điều phải phê phán với dụng ý có lợi cho mình, gây thiệt hại cho người.
Người cân điêu thường là dùng những xảo thuật để lừa dối người mua, nhằm rút hầu hao của người khác làm giàu cho mình.
Như vậy, nói điêu và cân điêu chỉ có lợi cho một phía, làm tổn hại vật chất và tinh thần cho phía khác. Sự rạch ròi như thế của cân điêu và nói điêu rõ ràng rất dễ bị phản bác và lên án, nhất là từ phía người bị hại.
Cho nên trong từ điển mới có thuật ngữ điêu toa để ám chỉ cái xấu của những người nói điêu và cân điêu.
Còn như cái cách sau đây: một nhân viên muốn lên chức, lên lương thì cức hễ có dịp là khen nức, khen nở thủ trường mình nào là sáng suốt, là năng động… trong khi năng lực và phẩm chất ông ta cũng tầm tầm, thậm chí có vấn đề. Ngược lại, một thủ trưởng muốn tạo ra chân rết dưới quyền để dễ bề sai khiến thì khen lấy được một người vừa yếu về chuyên môn, vừa cơ hội trong cuộc sống.
Xin được gọi là khen điêu. Sự khen điêu khác hẳn với sự nói điêu và cân điêu ở chỗ: cả người khen và người được khen cùng có lợi mà không phía nào bị thiệt hại. Thành ra người được khen và người khen luôn luôn sống trong hào quang của sự giả dối và tâng bốc lẫn nhau. Người hô – kẻ ủng gắn bó khăng khít thành ê kíp, thành đường dây. Và điều đó làm cho người ngoài cuộc có cảm giác ngộ nhận là việc khen điêu vô hại đối với mình, đành chậc lưỡi bỏ qua.
Phải chăng đó là gốc rễ để những kẻ cơ hội trong kinh tế và trong chính trị có đất nương thân và tác oai, tác quái đến lợi ích chung.
CHẾT VÌ BỆNH SỸ
Tôi không nhớ nổi câu ngạn ngữ hay câu phương ngôn trên có từ đâu, nhưng xin được đoán chắc là trên cõi đời này có tồn tại một căn bệnh như thế.
Đúng sai xin được bàn sau, chỉ biết rằng bệnh sĩ là có thật và xem ra ngày một phổ biến.
Bởi vì, bất cứ người bình thường nào, hễ biết nhìn, biết nghe và biết nhận xét các hiện tượng, sự vật xung quanh, không một ai lại tự cho phép mình thua chị - kém em. Có thể kể ra đây rất nhiều thí dụ, từ đứa trẻ ganh với đồng quà, tấm bánh; nam nữ cập kê đua sắc áo, sắc quần; người già to tiếng với nhau vì một chố ngồi mâm… cho đến những cái lớn lao hơn đều vậy.
Thì đó: - Nhà bên đập mái bằng – kiểu ăn chắc ở bền của một thời và là khát vọng của nhiều người – để làm nhà bón mái cong cong kiểu nhà Thái, lẽ nào nhà này cam chịu đứng nhìn?
       Anh là Tổng Công ty, anh vào Nam ra Bắc, anh liên doanh liên kết với nước ngoài, anh mua sắm xe Land Cruiser hai cầu, thì tôi đây, dù vài chục công nhân xóm, lương tháng có tháng không, nhưng mà tôi đang chạy dự án, đang nghiên cứu thị trường để mở rộng tầm nhìn, tôi há lại không sắm được con Corola tay lái nghịch?
Rồi như: ông địa chính mới được phân nhà thì bà quy hoạch sớm muộn sẽ có bìa đất; bên chuyên môn hợp đồng lắp vi tính, khối đoàn thể ắt sắm đủ điều hòa…
Thêm nữa, hôm nay nhân viên nhận bằng cử nhân (dù chứng chỉ phổ thông chưa có) ngày mai thủ trưởng có hồ sơ đi học cao học…
Có phải bệnh sĩ như thể chiếc đèn cù, làm cho con người ta, từ thuở ấu thơ cho đến lúc già cả cứ vòng vo rượt đuổi những bóng hình người khác để mong tự tôn vinh chính mình?
Có lẽ với ý nghĩa ấy mà nhiều nhà triết ký khuyến cáo rằng bệnh sĩ là căn bệnh chết người.
Dù biết thế, nhưng tác giả bài này chưa thực sự tin lắm, bởi vì chung quanh mình có rất nhiều điều sĩ và rất nhiều kẻ sĩ sống thọ ơi là thọ.